Đóa mạn đà la của cô dâu xứ Lâu Lan
Phan_2
“Ấn Thần, em làm sao vậy, tỉnh lại đi!” Trục Lỗi thấy vẻ mặt cô hoảng hốt, đứng lặng bên cửa, khẽ vỗ vào cô.
“A…!” Cô cố khiến mình tỉnh táo lại, yên lặng lẩm nhẩm câu nói của ông lão trong ảo giác vài lần.
Bên trong miếu thờ là một khung cảnh tàn phá không chịu nổi: Đá vụn và mục nát như tấm màn phủ khắp nơi. Đòn dông đã sắp sụp xuống, hơi nghiêng về một bên. Những tượng Phật để cúng bái đã biến đâu mất, chỉ còn lại một đài hoa sen cô độc nằm ở ngay chính giữa.
“Đây là miếu thờ ‘Phật Nhiên Đăng’[18].” Trục Lỗi nhìn chăm chú vào đài hoa sen, kết luận.
[18] Phật Nhiên Đăng: Phật đầu tiên trong 12 vị phật của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi sinh, chung quanh thân sáng như đèn, cho nên thành Phật gọi là Phật Nhiên Đăng, đăng nghĩa là đèn.
Chỗ ngồi của Phật Nhiên Đăng không giống như người thường, là năm bông hoa sen giao lồng vào nhau thành hai tầng trên một bệ đỡ. Tương truyền khi Phật Nhiên Đăng xuống trần, có một nhà sư “vì muốn đạt thành tất cả các loại trí, siêu độ cho chúng sinh vô lượng khổ” dâng tặng người bảy cành hoa sen, năm cành rơi xuống, biến thành đài sen, hai cành ở hai bên sườn, kề sát ống tay áo. Câu chuyện này đã được ghi lại trong rất nhiều Kinh Phật.
Hơn nữa ở vùng Tây Vực, Phật giáo rất thịnh hành, tín ngưỡng chủ yếu là Mani giáo[19], vì vậy những người ở đây thường dùng “Hỏa”, “Đăng” làm đối tượng để cúng bái. Bởi vậy, ở địa phương có rất nhiều miếu thờ “Phật Nhiên Đăng”, đương nhiên cũng có thể tên là “Định Quang Như Lai”.
[19] Mani giáo (còn gọi là Minh giáo) là một giáo phái bắt nguồn từ Ba Tư, được lưu truyền rộng rãi ở Trung Hoa thời nhà Đường, giáo phái này thờ lửa, coi lửa là sự sống.
Trong những bích hoạ ở Hang Mạc Cao, Đôn Hoàng, cũng có thể thường xuyên thấy vị Phật Tổ này tay cầm cây đèn để chúng nhân đến cúng bái, yên tĩnh an tường nhìn tăng chúng (người xuất gia) thụ (chịu) khổ. Ấn Thần đối với những câu chuyện xưa trong Kinh Phật chưa từng nghe qua, nhưng giữa tiềm thức phảng phất tồn tại một sợi dây mỏng manh kết nối, vây quanh những ký ức chôn dấu nhiều năm từ trong bùn đất, chậm rãi kéo lên, để chúng hiện rõ ràng ở một góc đầu.
Cô nhớ rõ hình như có một vị Phật điểm một ấn kí ngay giữa trán cô, thận trọng với cô: “Chớ hỏng pháp thân, nhớ lấy nhớ lấy!”
Nhất hoa nhất thế giới, nhất thụ nhất bồ đề.[20]
[20] Một câu trong kinh Phật.
Có lẽ ngôi miếu thờ này dãi gió dầm mưa, vì hàng ngàn năm trước từng trải qua một sự kiện bi thảm nào đó. Sinh linh lầm than, tăng chúng bỏ đi, văn minh tan biến… Tất cả, cuối cùng cũng vì bị dã man thôn tính!
Trục Lỗi đứng lên, lắc đầu nói: “Anh nghĩ ngoại trừ chữ viết trên cửa, chỗ này gần như đã bị phá hoại không còn gì. Ấn Thần, đi thôi!”
Cô lãnh đạm, pha lẫn nỗi bi ai nhìn lướt qua đài sen còn sót lại, nhớ tới một cô gái áo xanh, tay cầm một bình nước, miệng hơi hàm chứa ý cười, ngâm nga nói: “Nguyện lòng kiếp sau, luôn vì thê quân, tốt xấu không phân li.”
Ngay lúc đó, cô ngửi thấy mùi hoắc hương nhàn nhạt từ trên người Trục Lỗi.
Thời điểm ra khỏi miếu thờ, họ gặp Lâu Lan, giáo sư Tiền Duyệt Nam và người trợ lí của ông. Khi Ấn Thần nhìn Lâu Lan, cô ta cười tươi tựa hoa sen, không có thần sắc của một người đang chột dạ. Giáo sư Tiền đeo một chiếc kính, đằng sau hai tròng kính, mắt ông hòa nhã và hiền lành. Trên người ông mang đầy đủ dáng vẻ của một vị học giả kiến thức uyên bác. Sau khi giới thiệu đơn giản, Ấn Thần đưa cho giáo sư Tiền một đoạn văn tự cô đã chép trong miếu thác, không dài, chỉ một đoạn rất ngắn.
“Ấn Thần phát hiện những chữ này ở trước cửa miếu, so sánh với chữ trong cổ mộ, chúng tôi thấy khá tương đồng.” Trục Lỗi đứng bên cạnh giải thích.
“Ừm, Trục Lỗi, con vào huyệt mộ lấy một vài tờ văn tự mẫu lại đây.” Giáo sư Tiền trông rất chăm chú, cũng không ngẩng đầu lên.
Trục Lỗi cười như mặt trời, dường như thay giáo sư Tiền làm việc là một loại vinh hạnh. “Được.” Anh nói xong, xoay người đi ngay.
Lâu Lan quay đầu nhìn anh một cái, lại nhìn Ấn Thần, vẻ mặt trầm tư.
Ấn Thần hỏi: “Giáo sư, thầy cảm thấy đây giống như dạng văn tự mà dân cư bản địa sử dụng sao?”
Giáo sư Tiền trầm ngâm nói: “Rất khó nói. Nhà Hán khi hưng thịnh thường sử dụng Khư Lô văn[21], so với loại chữ này cũng khá tương tự. Nhưng chúng ta chưa có khảo chứng cụ thể, không thể dễ dàng kết luận.”
[21] Khư Lô văn: một văn bản phổ biến tại các khu vực lớn của Trung Á và là một loại ngôn ngữ thương mại quan trọng trên con đường tơ lụa và trong các ngôn ngữ Phật giáo.
“Cũng có thể là văn tự Điền Tắc?” Lâu Lan buông một câu.
“Cô nói là văn tự nước Vu Điền[22] sao?” Người tên Dương Vanh, trợ lí của giáo sư Tiền lắc đầu tỏ vẻ hoài nghi: “Vu Điền nằm phía trong Tân Cương, văn tự sao có thể xuất hiện ở Đôn Hoàng là vùng ngoài Tân Cương?”
[22] Vu Điền – nước Yutian (Khotan), một quốc gia cổ đại ở Trung Á, cũng nằm trên con đường tơ lụa, nằm trong lưu vực lòng chảo Tarim, con đường tơ lụa trong lòng chảo Tarim được chia thành hai lộ trình đi theo hướng bắc và hướng nam, men theo các rìa phía nam sẽ đi qua nước này.
Lâu Lan nở nụ cười: “Nhưng nhiều địa phương ở biên giới đất nước tôi đều khai quật được rất nhiều tiền cổ Ba Tư! Đồ vật ngoại lai hoặc văn hóa ngoại lai truyền bá đến những khu vực khác cũng không có gì kì quái.”
Giáo sư Tiền cũng cười: “Lâu Lan nói đúng. Ở Đôn Hoàng đã từng khai quật được một quyển sách cổ nội dung “Ghi chép về pháp luật – lịch sử Vu Điền”, dùng văn tự cổ ghi lại. Khả năng truyền bá cũng có thể có. Nhưng nước Vu Điền và ngôn ngữ Vu Điền, cũng như văn tự Vu Điền không được lưu truyền tới nay, ít nhất đến nay, chúng ta không có tư liệu về kiểu văn tự đó để so sánh.”
“Có lẽ.” Lâu Lan cười thần bí, nhưng không ai chú ý tới thái độ lúc ấy của cô.
Trục Lỗi đã đem một chồng giấy thô về cho giáo sư Tiền. Giáo sư Tiền vỗ vai Ấn Thần, sâu sa nói với cô: “Có lẽ em xuất hiện, công việc tìm tòi nghiên cứu cổ mộ của chúng tôi sẽ có tiến triển. Cố làm cho tốt vào nhé!”
Ấn Thần khẽ cười, tạm biệt ông, theo anh trai đi về phía cổ mộ.
Phần II
Phần hai: Truyền thuyết
Bụi đất là là bay lên, trước mắt đều là cát vàng mênh mông, khuấy đảo khắp nơi. Khói lửa chiến tranh giữa hai quốc gia tràn ngập, liên lụy vô số dân chúng cực khổ, đồ thán ngàn vạn sinh linh vô tội.
“Tội nghiệt!” Uất Trì Ất Tăng chắp tay trước ngực, cau mày trên lưng ngựa, mặc dây cương buông ở một bên, chàng đã bị quang cảnh tàn sát trên đường ám ảnh đến không thể dời mắt.
Chàng là một người lễ Phật, thành kính mà thiện lương. Tình cảnh khói lửa nổi lên bốn phía, trăm họ lầm than khiến chàng không khỏi buột ra một tiếng thở than.
“Uất Trì tiên sinh thật là đa cảm!” Một người đàn ông còn trẻ trung hơn so với chàng cưỡi một con ngựa trắng vượt lên, chạy song song với chàng.
Uất Trì Ất Tăng mệt mỏi thở dài, nói: “Thái tử, lần này đi Đại Đường là lấy thân phận con tin, không thể không khiến thần thương cảm.”
Người bị gọi là thái tử – Thánh Thiên – cũng nghiêm mặt thẳng lưng, hờ hững nhìn về phía Vu Điền.
Hoàng đế nhà Đường Lý Thế Dân dẫn binh thảo phạt nước Cao Xương, các nước phụ cận như Quy Tư, Thiện Thiện, Vu Điền[23] vì bảo toàn chỉ lo cho bản thân, cuống quýt phái thái tử, công chúa của nước họ và tù binh Cao Xương làm con tin, trục xuất đến Đại Đường.
[23] Tên các quốc gia thời cổ ở Tây Vực, Tân Cương, Trung Quốc.
Đó là nỗi bi ai của các quốc gia nhỏ yếu!
“Cao Xương binh như sương tuyết, Đường Vương binh, như nhật nguyệt. Nhật nguyệt chiếu sương tuyết, bao nhiêu tự điễn diệt!” Cách đó không xa, tiếng hát trầm đục của quân Đường vang dậy mừng thắng lợi, hào khí bài hát cao vút tận mây xanh, lại tựa như một lưỡi lê, một nhát một nhát đâm vào thân thể bọn họ.
Từ xưa đến nay, bất kể là dân tộc nào, chính quyền nào hình thành, cũng phải dựa vào máu và dã man mới có. Chiến tranh mang lại cho họ bá nghiệp! Nhưng đổi lại, chỉ còn vài thập niên ngắn ngủn chăm lo việc nước, nghỉ ngơi lấy lại sức. Những kẻ ở vương triều kế thừa giữa sự bình yên an nhàn, lại thoả sức hưởng lạc, vì thế càng xa xỉ và dâm dật, tàn sát bừa bãi, tàn bạo và cùng khốc chính nắm quyền, rồi chiến tranh lại một lần thổi qua đất nước Trung Hoa, lịch sử cứ như vậy trở thành một vòng tuần hoàn mãi mãi không thay đổi, không ngừng quay đều.
Khắp nơi, từng mảng cây bụi cỏ hé ra từng khóm hoa dại sắc hồng nhạt, phảng phất như ráng chiều khi chạng vạng, lộ nỗi khát khao vô hạn và hi vọng. Uất Trì Ất Tăng xoay người, nhìn cát vàng đằng đẵng trên suốt cuộc hành trình, một người con gái vô cùng diễm lệ cài một chiếc lược vào búi tóc, bất lực đứng ở con đường hoang vu, đôi mắt ngóng nhìn về phương xa.
Xem ra, lại là một cô gái có thân thế đáng thương.
Uất Trì Ất Tăng lắc đầu, nhẹ nhàng thúc ngựa, thong thả đi về phía nàng.
Chàng xuống ngựa, đặt dây cương vào tay nàng, nói: “Cô nương, đường xá xa xôi, ngồi cho khỏi đau chân.”
Nàng nhìn chàng, cười quyến rũ, vươn đôi tay trắng hồng, mềm mại tinh tế, trên cổ tay đeo một chuỗi vòng bạch ngọc khắc thành hình hoa sen, khẽ nắm dây cương, nhẹ giọng nói: “Đa tạ.”
Uất Trì Ất Tăng hơi vuốt cằm, cảm thấy chàng đã gặp qua cô gái này ở nơi nào đó, nhìn rất quen thuộc! Nhất là khi nhìn chiếc vòng hoa sen của nàng, năm đoá sen ở giữa, hai đoá hai bên sườn, khiến chàng nhớ tới pháp tòa[24] của Định Quang Như Lai. Nhìn kĩ, hoá ra chiếc vòng trên tay nàng quả thật được làm theo hình dáng của pháp toà mà Định Quang Như Lai vẫn ngồi, chẳng qua đài hoa sen khi nhìn lên lại như một đoá hoa xinh đẹp không vướng bụi trần.
[24] Pháp tòa: chỗ ngồi.
“Tiên sinh có hứng thú với món trang sức của Liên Thất sao?” Giọng nói nàng thoáng một chút bất lực, hạ giọng nói: “Tiên sinh cứu thiếp!” Nói xong, tháo vòng trên tay xuống, để vào lòng bàn tay chàng, giọng nói hơi cao, khiến cho binh sĩ bên cạnh hơi chú ý: “Nếu tiên sinh thích, vậy người cầm đi. Coi như Liên Thất trả người tiền thù lao cho con ngựa.”
“Cô nương khách khí rồi.” Mặt Uất Trì Ất Tăng không chút biến sắc, lấy ống tay áo rộng che khuất mảnh lụa tơ tằm trong tay, mặt trên mảnh lụa đầy những nét chữ xinh đẹp.
Đổi lại cô gái tên Liên Thất cưỡi ngựa, thong thả đi theo đám binh sĩ đắc thắng, bên cạnh nàng có mấy võ sĩ tay cầm kích vai đeo khiên, một tấc không rời nàng.
Thánh Thiên thái tử thúc ngựa vượt qua, xa xa trông thấy một đám quân lính rời đi, mới chậm rãi mở miệng hỏi: “Uất Trì tiên sinh biết vị cô nương kia sao?”
Chàng lắc đầu: “Không biết, nhưng mà trời còn có lòng, ta không thể trơ mắt nhìn một nữ tử chịu cảnh lăng nhục và tra tấn.”
Nói xong, chàng mở áo lấy chiếc vòng hoa sen và mảnh lụa mỏng nàng giao. Trên tấm lụa là những dòng chữ viết màu đỏ sậm, khiến Uất Trì Ất Tăng khi nhìn vào phải cau mày căng thẳng, lẩm bẩm: “Thiện tai thiện tai!” Liên Thất chắp tay: “Tiện thiếp là người Lâu Lan, theo tỉ tỉ về nhà tỉ phu dưỡng thai, đến Cao Xương gặp phải quân Đường, chẳng khác sài lang. Chúng tham luyến sắc đẹp tỉ muội, muốn cống cho vua Đường. Tỉ tỉ không theo, bị quân Đường làm nhục đến chết. Than ôi! Mong người thiện tâm giúp tiện thiếp tránh được bọn người hung bạo, huyết thư chứa lệ, Liên Thất chắp tay bái lạy.”
“Đó là…” Thánh Thiên hiếm khi nhìn thấy Uất Trì Ất Tăng tỏ vẻ lo âu đến như thế, vội xuống ngựa. Y cảm thấy sự việc dường như bắt đầu xuất hiện vấn đề khó giải quyết.
“Điện hạ, người xem.” Chàng cầm lá thư của Liên Thất giao cho thái tử, vẻ mặt do dự.
“Uất Trì tiên sinh tính làm gì? Thiện tâm của người lại muốn nổi lên, siêu độ chúng sinh?”
Thánh Thiên và Uất Trì Ất Tăng quen biết đã lâu, đương nhiên biết rõ cách chàng đối nhân xử thế nên khó tránh khỏi ở một vài thời điểm sẽ chế nhạo chàng vài câu, làm dịu không khí khẩn trương.
Có điều, thái tử Thánh Thiên nhìn huyết thư trong tay lại nghĩ, nàng kia thật quá mĩ lệ!
“Thái tử điện hạ, không còn sớm, chúng ta lên đường đi.” Uất Trì Ất Tăng kéo con ngựa mà quân hầu dâng lên, đạp bàn đạp, nhảy lên lưng ngựa, phút chốc, khí phách hiên ngang bộc lộ rõ ràng.
Thánh Thiên nhìn chàng kẹp chặt bụng ngựa, quát một tiếng “Đi!”, theo hướng quân Đường tiến tới.
Y vẫy tay, những người cưỡi ngựa phía sau cũng lục tục tiến lên.
Sau lưng đoàn người, lưu lại từng đám tường đổ, xương cốt dày đặc và cát vàng vạn dặm…
Ngày lại ngày.
Họ đi dọc theo con đường tơ lụa hướng tới thành Trường An, quốc đô của Đại Đường, chậm rãi tiến về phía trước, phong trần mệt mỏi.
Cuối cùng, phía trước đội ngũ cũng có người truyền lệnh xuống dưới, nói sắp đến Thành Nhiên Đăng, sau khi vào thành có thể nghỉ ngơi chỉnh đốn sơ qua, sáng hôm sau đi tiếp. Tất cả mọi người đều thở gấp một hơi.
Uất Trì Bạt Chất vuốt râu mỉm cười nói: “ Thành Nhiên Đăng! Truyền thuyết là nơi mà Định Quang Như Lai chuyển thế. Ất Tăng, chúng ta sắp có cơ hội đi chiêm ngưỡng pháp thân Định Quang Như Lai một phen.”
“Phụ thân nói đúng.” Uất Trì Ất Tăng chắp tay, thành kính cúi đầu đáp lại. Nói đến lễ Phật, tinh thần chàng lập tức hứng khởi, mới vừa rồi còn hơi do dự.
“Uất Trì đại thúc thật là cao hứng.” Thánh Thiên thái tử ngồi trên lưng ngựa cười tươi. Uất Trì Bạt Chất và phụ vương giao hảo nhiều năm, giọng nói ông luôn đầy phấn chấn tràn ngập tình cảm, như những bức họa của ông, đường cong trôi chảy, liền mạch lưu loát.
“Thái tử cũng có thể đi cùng, Bạt Chất cũng gọi là có vinh hạnh.” Uất Trì Bạt Chất hành lễ, râu dày khẽ phất phơ, phía trên dính đầy bụi đất. Thánh Thiên thái tử nói một câu “cung kính không bằng tuân mệnh”, rồi cười, xuống ngựa. Lập tức người hầu đỡ dây cương, kéo ngựa qua một bên.
Ba người dẫn theo một vài kẻ hầu, hỏi thăm đường từ những người dân trong thôn, đi qua mấy con đường mới mở, mới tìm được một tòa miếu thờ rộng lớn.
Cửa có hai cây cột rất lớn, từ trên xuống dưới được khắc đầy những cánh hoa sen, chính giữa được bọc gấm được thêu những hoa văn tiền cổ, thoạt nhìn rất kiên cố mộc mạc, có cảm giác vô cùng trang nghiêm.
“Không thể tin được, nơi này cũng có thể nhìn thấy những vật điêu khắc tinh mĩ như vậy!” Tay Uất Trì Ất Tăng vuốt nhẹ lên cánh hoa sen trên bồn và hoa văn mặt trên, cẩn thận đánh giá.
Phụ thân chàng vuốt râu, nhẹ nhàng nở nụ cười: “ Ất Tăng, đây là nét điêu khắc đặc sắc của xứ sở Đại Đường, đợi đến Đại Đường con có thể mở mang thêm nhiều kiến thứ.”
Thánh Thiên thái tử lắc đầu nói: “Nhưng tòa miếu thờ này cũ nát quá rồi, chẳng lẽ không có ai tới tu sửa?”
“Chờ thái tử lên ngôi, tu sửa cũng không muộn.” Uất Trì Bạt Chất nói xong, bước thẳng vào trong.
Diện tích miếu thờ rất lớn, chỗ cao nhất là một đàn tràng[25] khổng lồ, bên trong mấy chục vị sư nổi danh đã ngồi chỉnh tề, đang tụng kinh tối.
[25] Đàn tràng: nơi các tăng ni ngồi tụng kinh.
Một tiểu sa di[26] dẫn bọn họ vào một căn phòng nhỏ sau đàn tràng, chỉ đặt một bức bình phong đơn giản trên mặt ghi chữ “ thiện”. Hai bên là hành lang nhỏ, có thể thấy hai bên hông là những thiền phòng đơn giản, mộc mạc trang nghiêm mà trang trọng.
[26] Tiểu sa di: hoà thượng mới xuất gia.
Qua phòng khách đó là nơi bọn họ hi vọng vào bái yết, đại điện thờ Phật Nhiên Đăng.
Chính giữa có một tòa sen hai tầng, Phật nhìn xuống tay, khóe miệng thận trọng, như cười như không khiến cho người ta phải nghiền ngẫm không thôi.
Bên cạnh có hai bức tượng, dùng gạch mộc tạo thành, hơi đơn sơ, nhưng trông vẫn rất sống động. Nhìn kĩ có thể nhận ra một bức là một người con gái áo xanh tay cầm tịnh bình[27], bức kia là một hoà thượng trẻ tuổi hai tay chắp lại cúi đầu niệm kinh.
[27] Tịnh bình: bình nước sạch.
“Đây là…?” Trong đầu Uất Trì Ất Tăng như hiện lên một nữ tử áo xanh như vậy, ngậm cười nhìn chàng. Tư thế như vậy, biểu lộ như vậy, nhất định đã gặp ở nơi nào đó!
“Đây là một truyền thuyết rất đẹp của Thành Nhiên Đăng. Thí chủ chưa từng nghe nói qua sao?” Tiểu sa di cung kính chắp tay, nói.
“Truyền thuyết gì?” Ất Tăng hỏi.
Tiểu sa di vừa muốn mở miệng, Uất Trì Bạt Chất đã vuốt râu cười, nhìn chàng nói;” Ất Tăng, không còn sớm, chúng ta đưa thái tử trở về đi.”
Đại điện đã rực sáng ánh đèn, ánh sáng của những ngọn đèn lay động. Những âm thanh tụng niệm ngâm nga trong gió, gió lại phất phơ bóng dáng cúi đầu kính cẩn của họ, khiến người khác cảm thấy không khí yên lặng như nước.
Ất Tăng do dự, rồi lấy ra một khối lam ngọc đưa cho tiểu sa di. Người kia kinh hãi lui lại vài bước, nhắc đi nhắc lại: “Thiện tai thiện tai!”
“Đi thôi.” Thái tử dẫn mọi người theo đường cũ trở về. Uất Trì Ất Tăng ngẩng đầu nhìn, bức tượng bằng bùn nặn hình nữ tử áo xanh, đột nhiên kinh ngạc phát hiện dung mạo của nàng và người con gái tên Liên Thất dường như giống nhau như đúc!
Chuyện gì đã xảy ra? Vì sao trong ngôi miếu thờ “Nhiên Đăng Phật” lại xuất hiện bức tượng một nữ tử, khoé miệng mân cười khiến chàng cảm giác một sự quen thuộc mãnh liệt mà không hiểu. Phảng phất như mấy ngàn năm trước chàng đã gặp qua.
Uất Trì Ất Tăng cau mày, cúi đầu không nói.
Ra cửa, một tiểu sa di mang giấy nghiên mực bút đến để bọn họ đề tự.[28]
[28] Đề tự: viết chữ.
Uất Trì Bạt Chất vung tay, viết xuống một câu đối: “Thí thải du vân phùng phá nạp, nhàn lao khê nguyệt tố bồ đoàn.”[29]
[29] Thử ngắt mây bay khâu cà sa rách, nhàn rỗi mò trăng suối may chiếu cói.
Chữ cũng như tranh, lộ ra nét chất phác mà cứng cáp, khiến người ta tán thưởng không thôi.
“Chữ đẹp! Chữ đẹp!” Một vị lão hòa thượng mặt mày hiền hậu phát tay áo cà sa khen ngợi, “Thử thải du vân khâu phá nạp, nhàn lao suối nguyệt làm bồ đoàn. Thí chủ thật thú vị! Có phải cũng là đồng đạo?”
Uất Trì Bạt Chất chắp tay chào vị lão tăng, vuốt cằm nói: “Tứ đại vốn không có ta, ngũ uẩn cũng không[30]. Đại sư quá khen.”
[30] Lấy cảm hứng từ Tứ Diệu Đế và Ngũ Uẩn trong kinh Phật.
Vị lão tăng hoảng sợ kính cẩn nghênh tiếp, thi lễ nói: “Hoá ra là… Xin thứ cho đệ tử có mắt không thấy Thái Sơn, thất lễ! Thất lễ!”
Thái tử Thánh Thiên mỉm cười đứng một bên. Vu Điền quốc là quốc gia hướng Phật, người người lễ Phật tin Phật. Uất Trì Bạt Chất là nhân tài kiệt xuất trong đó, chẳng những bản thân giữ nghiêm thanh quy giới luật của Phật môn, còn đặt tên hai con gọi là Giáp Tăng và Ất Tăng, đủ thấy tư tưởng chỉ một lòng kính Phật.
Y hơi đắc ý dẫn đầu đoàn người thong thả đi ra ngoài, không chú ý tới vẻ mặt trầm tư của Uất Trì Ất Tăng.
Đêm lạnh như nước. Khí hậu Cao Xương cũ có tính chất của sa mạc lớn, ban ngày khô nóng nên không khí ban đêm tản đi, rất lạnh, ánh trăng tràn ngập sự ảm đạm. Những câu hát cổ thê lương du dương như xuyên thấu nỗi lòng, mang theo luồng tình cảm thần bí lại mờ ảo, len lỏi vào trong đầu những người không ngủ rồi không ngừng lan toả.
“Nguyệt hạ quân tử, bạch y vô trần. Thính tranh phủ khúc, bất nhạ tục thân.”[31]
[31] Quân tử dưới trăng, áo trắng không đượm cõi trần. Vỗ tranh đàn khúc, không đục tấm thân.
Một giọng nữ đọc thơ, từng chữ truyền vào tai chàng rõ ràng. Uất Trì Ất Tăng tỉnh ngủ, trong bóng đêm đứng dậy, vén lều vải bước ra ngoài.
Dưới ánh trăng sáng tỏ, xa xa, chàng thấy một cô gái áo trắng, vỗ về một cây đàn tranh, cúi đầu hát nhỏ. Gió đêm nâng tấm sa mỏng trên mặt nàng, chàng thấy rõ một gương mặt xinh đẹp thoát tục.
Hoá ra là nàng, người con gái tên Liên Thất ở Lâu Lan quốc.
“Chàng cuối cùng đã đến…” Nàng cười rạng rỡ với chàng. Mày ngài khẽ giương, thản nhiên lại mang theo một tia vui sướng.
Cuối cùng? Hai chữ khiến người khác tò mò! Phảng phất như nàng và chàng là bằng hữu quen thuộc đã lâu, hẹn nhau chờ đợi ột lần gặp lại.
Đợi chờ trong nỗi nhớ, cuối cùng người đã đến.
Niềm vui sướng bù đắp cho khoảng thời gian lâu dài khiến gương mặt mĩ lệ của Liên Thất như một đoá hoa.
Uất Trì Ất Tăng ngơ ngác đứng đó, như thấy bức tượng nữ tử áo xanh ngậm cười nhìn chàng yêu thương. Lời nàng dường như xuyên qua thời gian không gian, ở một góc trong kí ức, có một cảm giác quen thuộc không bao giờ tiêu biến như chớp hiện lên.
Hai người biết nhau, nhất định!
Chàng nghĩ, nhẹ nhàng ừ một tiếng, xem như tạm trả lời.
“Xem ra cái gì chàng cũng không nhớ rõ.” Liên Thất thu hết vẻ mặt của chàng vào đáy mắt, hé môi khẽ mở miệng lặp lại những lời vừa nói: “Cái gì chàng cũng không nhớ rõ…”
“Lời cô nương khiến tại hạ khó hiểu.” Chàng hơi cúi người, dường như muốn nhận lỗi, mắt vẫn an phận buông xuống, như không hề để tâm.
Liên Thất ai oán nhìn chăm chú vào chàng, nhưng rồi cuối cùng cũng không nói thêm, tiếp tục giữ tư thế cũ, vuốt khẽ đàn tranh, mở miệng hát khẽ: “Nguyệt hạ quân tử, bạch y vô trần. Thính tranh phủ khúc, bất nhạ tục thân.”
Lời ca phảng phất như đang vào cửa bái yết Phật, Uất Trì Ất Tăng đứng hoảng hốt phía xa, chắp tay, yên lặng nghe.
Một bàn tay từ phía sau đặt lên vai chàng, vỗ vỗ một cách thân thiện.
Chàng quay người, hoá ra là thái tử Thánh Thiên. Người đứng sau ý cười dày đặc nhìn về phía chàng.
“Ất Tăng, huynh có vẻ hào hứng quá!” Giao tình giữa bọn họ rất tốt, bởi vậy Thánh Thiên thường gọi thẳng tên chàng, lược bớt những tước hiệu lễ nghi phiền phức, thể hiện sự thân thiết.
“Thái tử cũng hào hứng không kém.” Chàng bình tĩnh nói tự nhiên, cũng không để lời nói của Thánh Thiên trong lòng.
“Huynh cùng vị Liên Thất cô nương kia có ước hẹn sao? Thế nào lại một trước một sau lần lượt xuất hiện?” Thánh Thiên mỉm cười, hiểu trong lòng mà không nói, nhìn chàng.
Ất Tăng không mở miệng, chỉ cúi đầu nghe. Im lặng một chút, chàng đem nỗi nghi ngờ trong lòng chậm rãi nói ra: “Thái tử, ta cảm thấy lai lịch của vị cô nương này hơi kì quái, khiến ta có cảm giác quen thuộc rất khó nói. Dường như đã gặp qua ở nơi nào!”
“Trên huyết thư nàng nói rõ nàng là người Lâu Lan.” Hơi khép mắt một chút, Thánh Thiên chợt nhớ chuyện xảy ra vào giờ Thìn hôm nay.” Ất Tăng, ta cảm thấy vị Liên Thất cô nương này âm thầm thần bí, không biết là địch hay bạn. Có khi nào là gian tế vua Đường phái đến theo dõi chúng ta không?”
“Gian tế?” Uất Trì Ất Tăng nhíu mày, “Thiện tai! Thiện tai! Thái tử nói quá lời. Liên cô nương không có khả năng là gian tế.”
“Huynh khẳng định?”
“Phật Tổ từng nói: ‘Mặt từ tâm sinh, mạo hợp mà thần cách, vị chi không tốt[32].’ Vị cô nương này tâm tư thanh tịnh, nhưng trong mắt lộ ra sầu não, sợ là có ẩn tình khác.”
[32] Mặt từ tâm sinh, dung mạo từ thần khí, có gì không tốt.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian